Đây là địa bàn cư trú lâu đời của hơn 30 dân tộc anh em với những phong tục tập quán tốt đẹp, với nhiều sản vật của núi rừng hùng vĩ, trong đó có hoa Ban. Mùa du lịch này mời bạn lên Tây Bắc, nhất định bạn sẽ có cơ hội được chiêmngưỡng sự độc đáo và vẻ đẹp kỳ diệu của hoa Ban...
Theo quốc lộ số 6, xe chạy vào địa phận tỉnh Hoà Bình. Từ đây trở đi lác đác nhìn thấy hoa Ban. Xe tiếp tục chạy, càng lên cao hoa Ban càng nhiều. Bên ô cửa kính, du khách có cảm giác bâng khuâng như gặp muôn nghìn cánh bướm chập chờn bay theo trong suốt cuộc hành trình. Qua huyện Thuận Châu (Sơn La) là tới địa danh bất tử “Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được” - nơi nhà thơ Quang Dũng từng ba lần xúc động thốt lên như vậy, trên đường Tây Tiến năm xưa.
Giữa bao la chồi non lộc biếc đại ngàn, từng chùm hoa Ban trắng như bông và xốp tựa mây, trôi bồng bềnh trong không gian, chảy xuống các lòng thung và vắt lên tận các đỉnh núi chọc trời. Tây Bắc là xứ sở của hoa Ban và hoa Ban là biểu trưng của Tây Bắc. Điều đó cắt nghĩa cho việc vì sao các giống hồng, lan, huệ, cúc... có thể thấy ở bất kỳ đâu, nhưng riêng hoa Ban thì chỉ duy nhất ở Tây Bắc mới có. Lặng lẽ dâng tặng và dâng tặng hết mình, đã từ lâu hoa Ban đi vào thơ - ca - nhạc - hoạ. Hơn nửa thế kỷ trước, hoa Ban từng nở rộ trong những trang ký lấp lánh của Nguyễn Tuân. Cách đây 35 năm, trong chuyến thực tế Lai Châu, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết bài thơ “Gửi Lai Châu” (1981), trong đó có câu: “Hoa Ban nở thành người con gái Thái”. Với bạn đọc Lai Châu - Điện Biên, đó là một trong những câu thơ hay nhất viết về hoa Ban, là sự ví von kiều diễm nhất về người con gái dân tộc Thái.
Cây Ban thân mộc, không mọc thẳng mà khẳng khiu uốn khúc, chia cành phân nhánh như có bàn tay tạo dáng của đấng hoá công. Về mùa đông cây Ban tự mình trút lá, dồn nhựa vào thân, đợi sang xuân ấm áp đâm chồi nảy lộc. Lá Ban mọc cách, không xếp thành tán và không rậm rạp như các loài cây khác; lá hình móng bò, rất giống hai trái tim đặt cạnh nhau. Sức sống của cây Ban thật mãnh liệt, dù trên đồi cỏ gianh khô cằn hay bám vào vách đá cheo leo, cứ qua mùa đốt nương là cây Ban trỗi dậy trong sự trường sinh bất tử.
Ban có hai loài, hoa đỏ và hoa trắng, loài hoa trắng chiếm đa số. Hoa Ban cùng họ với hoa bướm, không có hương nhưng có vị, mỗi hoa thường có 5 cánh, nhị màu hồng, gân màu tím. Nhị hoa Ban mang vị ngọt, quyến rũ nhiều loài côn trùng, nhất là các loài lấy mật như ong và bướm. Tên gọi hoa Ban theo tiếng dân tộc Thái, có nghĩa hoa Ngọt, đó vừa là danh từ vừa là tính từ.
Hàng năm, cuối tháng Giêng hoa Ban lác đác nở, rộ nhất và đẹp nhất là đầu tháng 2 âm lịch, đến cuối tháng 2 âm lịch thì hoa tàn dần. Lúc nở rộ trông cây Ban như chỉ có hoa mà không có lá. Bà con vùng cao coi hoa Ban như thể nông lịch của mình, họ phát nương vào lúc hoa nở và tra hạt vào lúc hoa tàn. Mùa hoa Ban, các bà các chị lúc đi nương về trong “ếp” thường có một ít hoa Ban, không phải để chơi mà là để ăn. Hoa Ban nấu canh, làm nộm, đồ lên chấm với dấm ớt măng chua... đó là thuộc tính riêng của hoa Ban mà nhiều loài hoa khác không có được. Theo kinh nghiệm thảo dược dân gian: Lấy 15 - 20 gam hoa Ban phơi khô, sắc trong khoảng 500ml nước, còn lại khoảng 100ml. Sau đó chia uống ba lần sáng, trưa, tối trong ngày (có thể pha thêm chút đường), trị chứng ho khan hoặc viêm họng rất tốt. Có người dùng lá và búp non của cây Ban, cũng dưới dạng sao vàng hạ thổ, chữa bệnh kiết lỵ tương đối hiệu quả.
Hàng nghìn đời nay, hoa Ban đã rất tự nhiên đi vào đời sống văn hoá - tâm linh của nhân dân Tây Bắc, nhất là bà con thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Với đồng bào Thái, có lẽ không ai là không trải qua tuổi thanh xuân nồng cháy, với những trò chơi thú vị hái hoa Ban và hát giao duyên. Trong ký ức của người đi xa, cùng với nỗi nhớ mường nhớ bản, nhớ người yêu, còn có nỗi nhớ da diết hoa Ban vào mỗi độ xuân về. Có người bảo hoa Ban nở như giục mầm măng mọc, như báo hiệu cho mùa lễ hội truyền thống “Xên lẩu nó” bắt đầu.
Trên bàn thờ của thầy cúng, cành hoa Ban là vật hiến tế nổi bật nhất và trang trọng nhất, được điểm xuyết bởi những búp măng và những chùm trứng gà cách điệu màu sắc sặc sỡ. “Hoa Ban đỏ”, đó không chỉ là tiêu đề mà còn là cái tứ để Nghệ sĩ ưu tú Bạch Diệp kết lại bộ phim truyện nổi tiếng cùng tên về đề tài Chiến thắng lịch sử Điện Biên. Đặc biệt, trong lăng Bác Hồ ở quảng trường Ba Đình, đường Bắc Sơn trước Tòa nhà Quốc hội bây giờ - Hà Nội, bên cạnh các giống cây trái từ khắp mọi miền đất nước về đây tụ hội, cây Ban tượng trưng cho tình cảm và lòng biết ơn của đồng bào các dân tộc Tây Bắc đối với vị Cha già kính yêu suốt đời vì nước vì dân.
Trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số Tây Bắc, hoa Ban kiêu hãnh xuất hiện trong các trường ca, các truyền thuyết và các câu chuyện kể bên bếp lửa hàng đêm. Về sự tích hoa Ban, đồng bào Thái có câu chuyện cảm động rằng: Để tỏ lòng thương tiếc Chương Han - người anh hùng dân tộc dám chống lại các thế lực đàn áp, độc ác - nhân dân buộc những mảnh khăn tăng lên các cành cây. Về sau, thời gian như có phép nhiệm màu đã hoá những mảnh khăn tang thành những đoá hoa Ban trắng trong, tinh khiết.
Nếu lên Tây Bắc vào dịp cuối mùa xuân, bạn sẽ được dự lễ hội “Kin pang then” của người Thái Trắng và lễ hội “Kin chiêng bók may” của người Thái Đen, bạn sẽ được đắm mình qua những cuộc vui nồng nàn, ý vị và đậm đà bản sắc, để tạm quên đi những âu lo trĩu nặng con người. Trên cột cây “hoa chủ” của các lễ hội, xin bạn hãy ngắm kỹ cành hoa Ban trong không gian kiến trúc của nhà sàn - khau cút. Rồi tự bạn sẽ cảm bằng tim chứ không chỉ thấy bằng mắt, rằng quả thực ở đâu hoa Ban cũng đẹp, đẹp như chính những bàn tay ngọc ngà của các “nàng Kiều” khăn piêu áo cóm, đang thật khẽ khàng vít cong cần rượu mời ta...